Thời sự

Viêm não tự miễn: Căn bệnh xa lạ dễ gây tử vong

  • Tác giả : Bác sĩ Nội trú Nguyễn Đức Minh
Viêm não tự miễn là bệnh lý còn xa lạ đối với nhiều người, được đặc trưng bởi các tổn thương não do chính hệ miễn dịch của cơ thể gây ra. Những tổn thương này mang tính chất phức tạp và để lại khiếm khuyết thần kinh nghiêm trọng.

Viêm não là bệnh lý tổn thương cấp tính của não bộ do nhiều nguyên nhân khác nhau từ nhiễm trùng đến không nhiễm trùng.

Viêm não tự miễn là nguyên nhân ít gặp gây viêm não, xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể nhầm lẫn và tự tấn công các tế bào khoẻ mạnh ở não bộ. Đây là bệnh lý khó chẩn đoán và tỷ lệ di chứng rất cao.

Bệnh xuất hiện sau một rối loạn đáp ứng miễn dịch của cơ thể với tình trạng nhiễm trùng vi khuẩn, virus trước đó; hoặc rối loạn đáp ứng miễn dịch khi có những khối u (u buồng trứng, u tinh hoàn). Khi đó, hệ miễn dịch của cơ thể sẽ nhầm lẫn kháng nguyên bình thường trên tế bào não, tủy sống là tác nhân có hại, và sản xuất ra tự kháng thể để chống lại những tế bào đó như anti-NDMA, anti-LGI1, anti-CASPR2...

Bệnh xuất hiện ở mọi lứa tuổi, không phân biệt tiền sử tổn thương não trước đó, nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ nhiều hơn.

Bệnh nhân mắc viêm não tự miễn có thể gặp ảo giác

Bệnh nhân mắc viêm não tự miễn có thể gặp ảo giác

Từ thần kinh, tâm thần đến hôn mê, co giật

Các triệu chứng của viêm não tự miễn rất đa dạng, bao gồm các dấu hiệu về thần kinh và tâm thần, thường diễn biến tương đối nhanh qua vài tuần hoặc vài tháng.

Triệu chứng thần kinh: suy giảm ý thức, mất nhận thức, giảm khả năng học tập và làm việc, rối loạn chức năng ngôn ngữ, cử động cơ thể bất thường hoặc nhiều cơn co giật đa dạng, giảm/mất thị lực, giảm trí nhớ, yếu liệt vận động tay chân.

Triệu chứng tâm thần: rối loạn giấc ngủ và các rối loạn tâm thần như lo lắng, thay đổi khí sắc, loạn thần với hoang tưởng, ảo giác hoặc hội chứng căng trương lực.

Biến chứng nặng: hôn mê, co giật nhiều gây phù não, suy hô hấp, nguy cơ chết não, tiêu cơ vân do co giật gây suy thận cấp, liệt kéo dài teo cơ, cứng khớp về sau.

Tỷ lệ tử vong cao nhưng khó chẩn đoán

Chẩn đoán dựa vào khám bệnh và xét nghiệm dịch não tủy qua thủ thuật chọc dịch não tủy. Chọc dịch não tủy qua khe đốt sống thắt lưng là phương pháp lấy bệnh phẩm xét nghiệm chẩn đoán xác định bệnh và xét nghiệm những tự kháng thể gây bệnh.

Xét nghiệm máu, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ sọ não hỗ trợ chẩn đoán biến chứng, theo dõi điều trị. Siêu âm, CT bụng có thể phát hiện khối u là nguyên nhân gây rối loạn miễn dịch.

Điều trị nội khoa: phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh có thể sử dụng nhiều biện pháp phối hợp như corticoid liều cao, thuốc ức chế miễn dịch, lọc máu thay huyết tương, sử dụng thuốc globulin miễn dịch (IVIG). Điều trị hỗ trợ: chống phù não, thuốc cắt cơn co giật (có thể cần nhiều loại phối hợp), dự phòng nhiễm trùng, đảm bảo dinh dưỡng, chống loét, teo cơ cứng khớp do nằm lâu.

Can thiệp xâm lấn nếu có: thở máy qua nội khí quản nếu bệnh nhân suy hô hấp, tắc nghẽn đường thở do ứ đọng, phẫu thuật cắt u nếu phát hiện khối u.

Liệu pháp phục hồi chức năng, gồm thể chất, xã hội và ngôn ngữ giúp Người bệnh hoà nhập cuộc sống

Tiên lượng: tỷ lệ tử vong không cao nhưng bệnh khó chẩn đoán và điều trị nên thường phát hiện bệnh muộn, tỷ lệ di chứng về thần kinh, tâm thần cao, phụ thuộc chăm sóc y tế lâu dài về sau.

Nếu được điều trị tích cực, 75% bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn, 25% bệnh nhân sẽ để lại di chứng nặng nề hoặc tử vong.

6 nhóm triệu chứng chính của bệnh viêm não tự miễn bao gồm:

1. Rối loạn hành vi hoặc chức năng nhận thức: Lo âu, mất ngủ, ảo tưởng, hoang tưởng, hung hãn, cáu gắt. Thường theo sau đó là giai đoạn xen kẽ giữa kích động và đờ đẫn bất động.

2. Rối loạn lời nói: Bệnh nhân nói huyên thuyên hoặc trở nên ít nói dần và nặng hơn là hoàn toàn không tiếp xúc với xung quanh.

3. Giảm ý thức.

4. Loạn động:

- Loạn động miệng-lưỡi- mặt, đặc trưng là nhai miệng, cắn lưỡi, lưỡi đưa qua lại liên tục trong miệng.

- Loạn động ở thân mình gồm gồng cứng cơ toàn thân, múa vờn tay chân, thất điều (cử động vụng về và khó giữ thăng bằng, đi loạng choạng).

5. Co giật khu trú hay có thể toàn thể hóa.

6. Rối loạn thần kinh thực vật: Sốt cao, nhịp tim thay đổi nhanh chậm từng lúc, huyết áp cao, giảm thông khí dù không hôn mê.

Bác sĩ Nội trú Nguyễn Đức Minh (Bệnh viện Nhiệt Đới TƯ)

Bác sĩ Nội trú Nguyễn Đức Minh