Khám phá

Sự thật chuyện Trạng Me đè Trạng Ngọt - kỳ 2: Trạng Me phát lộ tài năng sớm

  • Tác giả : Nguyễn Thành Hữu
(khoahocdoisong.vn) - Trạng Me phát lộ tài năng sớm. Dù mang tiếng là mạo Trạng nguyên, nhưng Nguyễn Giản Thanh cũng là người có thực tài, được triều đình trọng dụng.

Chuyện “trạng Me đè trạng Ngọt”, sách xưa còn ghi, Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc, hay còn gọi là làng Me, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh). Giản Thanh là con trai của Tiến sĩ Nguyễn Giản Liên. Cha mất sớm, ngay từ nhỏ, Giản Thanh đã có phong tư tài mạo sáng sủa, thông minh đĩnh ngộ.

Giai thoại kể rằng, năm lên sáu tuổi, một hôm Giản Thanh đang chơi ngựa bằng tua cau thì có viên quan nghỉ hưu trên đường đi tới. Lính tráng ra oai dẹp đường, nhưng Giản Thanh vẫn cưỡi tua cau đứng nhìn. Viên quan bèn hỏi: Cháu bé đã đi học chưa?

Khi nghe Giản Thanh trả lời là đã biết chữ, làm được câu đối, viên quan liền ra thử vế đối. Trẻ cưỡi mo cau! Giản Thanh nhìn thấy người lính đứng bế con hạc gỗ, đội biển vua ban, nên đối luôn: Già chơi hạc gỗ! Viên quan biết Nguyễn Giản Thanh phát lộ tài năng sớm, sau này ắt sẽ làm nên sự nghiệp, nên khen ngợi và thưởng cho tiền.

Bấy giờ Tiến sĩ Đàm Thận Huy, nổi tiếng hay chữ, là thành viên của Tao đàn Nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông, nghỉ việc quan mở lớp dạy học trò. Nguyễn Giản Thanh may mắn được nhận vào học. Một hôm học xong thì trời đổ mưa, học trò không về được. Nhân đấy cụ Nghè ra câu đối thử tài học trò của mình. Vế đối ra là:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách (mưa không khóa cửa mà giữ được khách ở lại). Mấy trò đều đưa câu đối dâng lên thầy, trong đó có câu của Giản Thanh:

Sắc bất ba đào dị nịch nhân (Sắc đẹp không phải sóng gió mà làm đắm được người). Cụ Nghè tỏ ý khen rất tài hoa, đối rất chỉnh, sau này đỗ đạt, nhưng cậu học trò này có tính đa tình, say mê sắc đẹp.

Có thực trạng Me đè trạng Ngọt?     

Đến kỳ thi đại khoa năm Mậu Thìn đời vua Lê Uy Mục (1508), các quan giám khảo chấm được hai người xuất sắc nhất là Hứa Tam Tỉnh và Nguyễn Giản Thanh.

Cả hai đều cân sức cân tài, xem ra Nguyễn Giản Thanh văn hay, bay bổng hơn, nhưng Hứa Tam Tỉnh thâm trầm, sâu sắc hơn. Khi khảo quan chấm xong thấy bài Hứa Tam Tỉnh có phần trội hơn nên lấy đỗ nhất, còn Nguyễn Giản Thanh xếp thứ hai.

Các quan trường có ý chọn Tam Tỉnh đứng đầu, nhưng vẫn còn khâu cuối cùng do nhà vua trực tiếp sát hạch. Buổi chầu hôm ấy có mặt Hoàng thái hậu. Bà thấy Hứa Tam Tỉnh lùn thấp, đen đủi, trong khi Nguyễn Giản Thanh người cao ráo, trắng trẻo thư sinh, đã chỉ ngay mà nói: ồ, đây hẳn là trạng nguyên tân khoa. Xứng đáng quá đi rồi!

Vua cũng biết là văn tài của Tam Tỉnh hơn Giản Thanh nhưng vì muốn chiều lòng mẹ nên mới bèn nghĩ ra cách cho hai người cùng một bài phú, đầu đề là: “Phụng thành xuân sắc”, nghĩa là “Cảnh xuân ở Kinh thành”.

Hứa Tam Tỉnh làm bài bằng chữ Hán. Nguyễn Giản Thanh nhận thấy đến vua cũng còn nể ý kiến Thái phi, mà bà thì không am hiểu mấy chữ Hán, nên làm bài phú bằng chữ Nôm. Vả lại nếu thi tài chữ Hán thì Nguyễn Giản Thanh biết mình khó có thể làm hay hơn Hứa Tam Tỉnh. Bài phú của Nguyễn Giản Thanh có đoạn:

Chợ hoa đầm ấm, phố ngọc tần vần - Trai bảnh bao đá cầu vén áo -
Gái éo le rủ yếm khỏi quần…Bà Kinh phi nghe đọc mà miệng tấm tắc khen hay. Nhà vua rất đẹp lòng, bèn đánh tụt Hứa Tam Tỉnh xuống Bảng nhãn, đưa Nguyễn Giản Thanh lên Trạng nguyên.

Biết được chuyện chỉ vì “đẹp giai” mà Nguyễn Giản Thanh đoạt mất chức Trạng nguyên của Hứa Tam Tỉnh, người làng mình xứng đáng hơn, các bậc trí giả làng Vọng Nguyệt, tỏ ra bất bình, bèn đặt tên cho Nguyễn Giản Thanh là "Mạo Trạng nguyên". Tên gọi này có hai nghĩa, mạo là diện mạo, là vẻ mặt, đồng thời cũng có nghĩa là giả mạo. Còn dân gian thì lưu truyền câu "Trạng Me đè Trạng Ngọt".

Tuy vậy, công bằng mà nói, Nguyễn Giản Thanh cũng là một người tài. Chẳng thế mà ông được tin dùng giao cho chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ thời Lê. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc và được cử đi sứ sang nhà Minh để cầu phong cho Mạc Đăng Dung. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá. Khi mất được ban cho tước hầu.

Nguyễn Thành Hữu