Doanh nghiệp

Kinh tế tư nhân: Cần gỡ bỏ tình trạng “không chịu lớn”

  • Tác giả : Tuyết Vân
(khoahocdoisong.vn) - Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, tốc độ dịch chuyển doanh nghiệp (DN) Việt từ nhỏ lên vừa rất chậm và tỷ lệ chuyển lên được cũng rất thấp. Hàng trăm DN tư nhân phải mất 10 - 20 năm mới phát triển lên quy mô vừa, nhưng khi tương đối thành công lại quyết định rút khỏi thị trường, bán hoặc sáp nhập DN của mình vào DN khác, chủ yếu là DN FDI.

“Không chịu lớn” vì bị chèn ép

Viện Chiến lược phát triển (Bộ KH&ĐT) vừa lấy ý kiến các chuyên gia về chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2021 - 2030). Theo các chuyên gia kinh tế để "Giấc mơ Việt Nam thịnh vượng” hiện thực hóa đòi hỏi những nỗ lực phi thường để tạo đột phá ở khu vực kinh tế tư nhân (KTTN).

Theo bà Phạm Chi Lan, tình trạng “không chịu lớn” và không muốn chính thức hóa hoạt động kinh doanh của số đông DN tư nhân siêu nhỏ, nhỏ và vừa phản ánh niềm tin kinh doanh còn thấp và bấp bênh ở khu vực KTTN Việt Nam. Thiếu niềm tin ở năng lực của bản thân, ở môi trường kinh doanh và sự bảo vệ của luật pháp khiến nhiều người tham gia kinh doanh chỉ nhằm mưu sinh và chỉ dám làm cầm chừng, cốt cho “đủ ăn” hơn là dám làm lớn hay làm ăn lâu dài.

Sự chênh lệch về nhiều mặt giữa khu vực kinh tế tư nhân với các DN thuộc khu vực DN nhà nước và FDI có nguyên nhân gốc rễ là môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN, các thành phần kinh tế chưa thực sự được tạo lập.

Các DN nhà nước dù gò bó chịu sự quản lý trực tiếp của nhiều cơ quan nhà nước nhưng được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của DN tư nhân trong nước và quốc tế, đồng thời được hưởng nhiều đặc quyền trong tiếp cận các nguồn lực và giành thương quyền trong các dự án có khả năng sinh lời cao. Còn FDI thì được quan tâm thu hút bằng nhiều cơ chế, tạo nên sự bất bình đẳng với khu vực kinh tế tư nhân.

Mặt khác, hiện tượng “lợi ích nhóm”, “doanh nghiệp sân sau”, “doanh nghiệp thân hữu” khá phổ biến những năm gần đây đã tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa DN thân hữu với DN không có quan hệ thân hữu.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.

“Trong một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bị chèn ép nhiều bề nên rất khó có thể lớn lên được. Quyền tiếp cận các nguồn lực, thương quyền và cơ hội kinh doanh của họ bị thu hẹp, thậm chí bị tước đoạt bởi những DN được ưu đãi một cách không sòng phẳng. Biên lợi nhuận quá nhỏ bé và bấp bênh khiến khu vực KTTN càng khó có khả năng đầu tư phát triển và ít dám nghĩ đến làm ăn lớn hay lâu dài”, bà Lan nhấn mạnh.

Gần đây đã xuất hiện nhiều DN tư nhân trong nước quy mô lớn, tăng khá nhanh trong một thập kỷ vừa qua sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các DN này nổi lên từ đầu tư kinh doanh bất động sản và tích tụ tài sản từ đất, nhờ sử dụng mối quan hệ thân hữu với một số cá nhân và cơ quan nhà nước - nơi có quyền phân bổ đất đai là thứ tài nguyên được hiến định thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý, phân bổ. Sau khi quy mô đủ lớn thì chuyển một phần đầu tư sang các lĩnh vực khác đa dạng hơn, như công nghiệp chế tạo, năng lượng, các dịch vụ ngân hàng, thương mại, vận tải, y tế, giáo dục… kể cả một vài lĩnh vực công nghệ cao. Tuy nhiên, để khu vực KTTN có thể trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, có rất nhiều việc phải làm từ cả phía nhà nước và phía DN.

Phải là động lực của nền kinh tế

Theo bà Phạm Chi Lan, hiện thực hóa khát vọng hay giấc mơ về một Việt Nam Thịnh Vượng đòi hỏi những nỗ lực phi thường và chuyển biến vượt bậc, đột phá, vượt lên chính mình của mọi người dân Việt Nam, trước hết là của tầng lớp lãnh đạo. Quan trọng nhất của phía nhà nước là tạo lập một môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng, lành mạnh. DN tư nhân, quan trọng nhất là nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa, đổi mới công nghệ...

Thách thức lớn nhất với doanh nghiệp vừa và nhỏ là khó khăn trong việc lựa chọn hướng đi mới, lựa chọn sản phẩm, công nghệ… Các DN rất cần cùng nhau tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, dự báo tương lai, chia sẻ thông tin, giúp nhau định hướng lại và điều chỉnh chiến lược kinh doanh, trước khi bắt tay thực hiện sự đổi mới. “Thay vì xin nhà nước cứu trợ, DN nên vận động nhà nước tập trung hỗ trợ DN đổi mới công nghệ và quản trị để phát triển”, bà Lan nhấn mạnh.

Cùng quan điểm với bà Lan, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế T.Ư (CIEM) cho rằng, khó tiếp cận được nguồn lực là rào cản khiến DN tư nhân không lớn được. Để phát triển KTTN cần chú trọng cải cách, đổi mới thể chế về huy động phân bổ nguồn lực, từ đó tạo ra sự cân bằng trong tiếp cận nguồn lực. Đồng thời, phải mở rộng, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tháo bỏ các rào cản với đầu tư, kinh doanh. Tự do ở đây không chỉ là “tự do làm gì”, mà còn là “tự do làm thế nào”. Bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và DN, trong đó có việc cải cách tư pháp và tòa án; xây dựng thể chế thực thi; khuyến khích áp dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo…

TS Nguyễn Thị Luyến, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế T.Ư cho rằng, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với khu vực KTTN. Không nên đặt vấn đề ưu đãi mà cần tạo không gian phát triển, tạo cơ hội cho KTTN, đặc biệt là DN tư nhân khai thác, sử dụng nguồn lực quốc gia phân bổ lại từ khu vực kinh tế nhà nước. Tập trung giải quyết các điểm nghẽn cản trở DN tư nhân đầu tư, sản xuất và phát triển. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tạo điều kiện cho DN cạnh tranh và tăng trưởng, đặc biệt vấn đề về quyền sở hữu tài sản, quyền liên quan đến sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề cạnh tranh công bằng và bình đẳng.

TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng BIDV lưu ý thêm rằng, điểm yếu lớn là thông tin, cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp còn thiếu và yếu. Bởi những thông tin, dữ liệu về doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh là vô cùng quan trọng và then chốt khi chúng ta muốn thực hiện được đột phá trong chuyển đổi số, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh công khai, minh bạch.

Tuyết Vân